Get me outta here!

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2018

Mùa bệnh trẻ em


Thời tiết cũng là yếu tố  ảnh hưởng quan trọng đến các vấn đề năng lượng trẻ em. Đáng lưu ý  dễ mắc bệnh nhất là những tháng cuối năm, khi tiết trời trở lạnh. Do vậy, mùa lạnh còn được gọi là mùa bệnh ở trẻ em. 



Mùa lạnh là mùa bệnh trẻ em


Thống kê tại Bệnh viện (BV) Nhi Đồng 1 TP.HCM cho thấy, thời tiết chuyển lạnh là mùa đông bệnh nhất trong năm. Nguyên nhân do trẻ không thể điều chỉnh nhiệt độ cơ thể của mình như người lớn, có thể nhiễm lạnh rất nhanh nên dễ mắc bệnh. Thời tiết lạnh thích hợp cho nhiều loại virút hô hấp phát triển và hoành hành gây bệnh.
Các bệnh hô hấp lây lan rất nhanh qua các giọt dịch tiết hô hấp bắn ra khi trẻ bệnh hắt hơi, sổ mũi, khạc nhổ. Trẻ đi học tiếp xúc thân mật với các trẻ khác trong môi trường học tập, đây là điều kiện lây lan, làm nhiều trẻ khác cùng mắc bệnh.
Đáng chú ý, mùa lạnh còn là mùa chào đời của những trẻ sơ sinh, nhỏ bé và yếu ớt, có nguy cơ mắc bệnh và dễ bị nặng nên việc phòng bệnh cho trẻ trong mùa lạnh là điều rất cần thiết mà các bậc phụ huynh cần chú ý.
Mùa bệnh trẻ em 1
Tắm trẻ trong phòng kín gió, đảm bảo nước tắm ấm (32oC)

Những vấn đề năng lượng trẻ em trong mùa lạnh
Mùa lạnh ở việt nam có sự chênh lệch thời tiết trong ngày: lạnh nhiều vào chiều tối và buổi sáng nhưng lại nóng hơn vào buổi trưa, đan xen những đợt mưa bão cùng những ngày áp thấp nhiệt đới. Khả năng điều chỉnh nhiệt độ cơ thể lại giảm theo tuổi do vậy trẻ em bị mất nhiệt nhanh hơn so với người lớn. Tình trạng mất nhiệt chủ yếu xảy ra qua da, hơi thở. Đó là lý do trời lạnh, trẻ có nguy cơ bị nhiễm lạnh, tổn thương đường thở và ở da.
- Nhiễm lạnh do không được giữ đủ ấm, làm trẻ bị run rẩy, da sờ thấy lạnh, buồn ngủ, nói năng líu nhíu. Nặng hơn trẻ bị tê cóng, hệ thần kinh và các cơ quan hoạt động chậm đi làm trẻ lú lẫn, hôn mê, thở chậm, nhịp tim chậm hơn , ảnh nưởng đến tính mạng.
- Hít thở không khí lạnh, đường thở của trẻ bị khô đi tạo điều kiện cho các loại virút phát triển mạnh mùa lạnh bám lên đó và gây bệnh hô hấp. Cảm lạnh, viêm mũi, viêm họng, viêm amiđan, viêm thanh khí quản, viêm phế quản, viêm phổi, suyễn, nếu không chăm sóc thích hợp có thể trở nặng nguy hiểm. Nếu tự ý điều trị kháng sinh, nhỏ mũi, xông thuốc, dùng thuốc không đúng có thể làm bệnh khó điều trị hoặc diễn tiến kéo dài, có thêm biến chứng.
- Da trẻ mỏng manh, cấu trúc da chưa hoàn thiện nên dễ bị ngứa và khô đi khi trời lạnh. Nổi mẩn dị ứng, hoặc mề đay do lạnh, chàm da làm trẻ ngứa ngáy, khó ngủ. Da khô do không đủ ẩm sẽ bị xước hoặc nứt nẻ, gây đau và khó chịu.      
- Trời lạnh làm trẻ thèm ăn và thích ăn ngọt hơn là nguy cơ tăng cân đối với trẻ béo phì. Chu kỳ ngày đêm cũng thay đổi, ngày ngắn đêm dài hơn, làm trẻ ngủ nhiều không thức dậy đúng giấc khiến cơ thể dễ suy nhược. Một số trẻ lớn có thể bị rối loạn tâm lý theo mùa như: dễ cáu kỉnh, buồn bã, mệt mỏi, khó tập trung, không còn hứng thú với các hoạt động thú vị trước đó. Những thay đổi này dễ dẫn đến những xung đột với những người xung quanh.
Giữ cho trẻ đủ ấm
Da là cơ quan tỏa nhiệt chủ yếu để duy trì thân nhiệt ổn định, chiếm gần 90% lượng nhiệt của cơ thể, trong đó, gần 50% qua da đầu do tỉ lệ đầu trên cơ thể lớn hơn ở người lớn. Mất nhiệt tăng lên ở trẻ sơ sinh, hoặc khi trẻ bị lạnh, ướt. Một số cách giúp trẻ đủ ấm cho trẻ như sau:
- Mặc cho trẻ quần áo ấm, đội nón, quấn khăn, mang bao tay, vớ tất. Tránh quần áo quá chật hoặc băng rốn, quấn tã quá chặt. Quấn chặt không làm trẻ ấm hơn như mong muốn.
- Giữ cho phòng ngủ không bị gió lùa và ấm cả ngày lẫn đêm. Trẻ sơ sinh nằm cùng giường với mẹ. Bú mẹ, cũng là một cách giữ ấm.
- Tránh giữ ấm bằng nằm than, chai nước nóng hay gạch hơ nóng vì có thể gây tổn thương da trẻ.
Khi tắm trẻ có nguy cơ mất nhiệt, phương pháp tắm nhiều bước giúp trẻ được ấm như sau:
- Tắm trong phòng kín gió. Chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng để trẻ không bị cởi trần lâu và tắm được nhanh hơn. Đảm bảo nước tắm ấm (32oC).
- Rửa mặt trẻ trước, gội đầu sau cùng. Sau khi gội, lau khô tóc và da đầu cho trẻ ngay, lau nhiều lần đến khi đảm bảo tóc khô.
- Tắm nhanh cho trẻ. Lau khô trẻ thật nhanh và hoàn toàn bằng khăn ấm. Mặc quần áo, áo ấm. Trẻ nhỏ đội mũ, quấn tã và đặt vào mẹ ngay.
Không tự ý dùng kháng sinh, nhỏ mũi, xông thuốc
Các biện pháp giúp trẻ phòng chống bệnh mùa lạnh cần áp dụng thường xuyên để tăng cường năng lượng:
- Giúp trẻ ăn bổ, ngủ ngon, học đủ, chơi an toàn. Chọn thức ăn nóng, uống nước ấm. Tránh ăn thức ăn lạnh, quá mặn hoặc quá ngọt. Giữ da và rốn trẻ sạch khô. Dùng kem dưỡng ẩm duy trì độ ẩm da. Cắt móng tay ngắn, tránh gãi ngứa. Không tự ý băng, đắp thuốc theo kinh nghiệm.
- Dạy trẻ thói quen làm sạch:
- Rửa sạch tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi làm sạch. Người chăm sóc cũng phải thường xuyên rửa tay trước khi ẵm bồng hoặc chăm sóc trẻ, chế biến thức ăn và cho trẻ ăn uống.
- Che miệng mũi khi ho, hắt hơi. Không khạc nhổ bừa bãi. Không dùng tay để dụi mắt, chùi quẹt mũi.
- Dạy trẻ không dùng chung khăn lau, không ăn uống chung chén, ly, muỗng với trẻ khác.
- Đảm bảo chủng ngừa đầy đủ, lưu ý ngừa cúm và Rotavirus.
- Chỉ dùng thuốc kháng sinh, xịt mũi, nhỏ mũi, hoặc xông thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ.
BSCK2 NGUYỄN THỊ KIM THOA

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2018

Những loại đau đầu ít gặp nhưng không kém phần nguy hiểm

Đau đầu do gắng sức
Loại đau đầu này xuất hiện trong vòng vài phút sau những nỗ lực thể chất, bao gồm tập luyện, quan hệ tình dục, hắt hơi, cười, thậm chí là đi đại tiện.


Khi bạn gắng sức do tiến hành một số hoạt động, áp lực dịch não tủy trong đầu tăng trong một thời gian ngắn. Áp lực này dẫn tới đau, nhưng may mắn là không đáng lo ngại và sẽ hết trong vòng vài phút (hoặc có thể tới 1 giờ)
Trong những trường hợp hiếm, có thể là một rối loạn mạch máu gây đau, vì vậy nếu đau đầu nghiêm trọng đột ngột, bạn cần đi khám bác sĩ.
Đau đầu do cao huyết áp

Đây là loại đau đầu liên quan đến huyết áp, thường xảy ra khi huyết áp tăng cao 200/110 hoặc cao hơn. Khi huyết áp tăng rất cao, mạch máu có thể hạn chế lưu thống máu tới não. Đau đầu do tăng huyết áp có thể cảm thấy giống như đau đầu khi đeo băng-đô, cơn đau thường rất tồi tệ vào buổi sáng, cải thiện hơn trong ngày.
Viêm động mạch tế bào khổng lồ
Nguyên nhân của chứng đau đầu kinh khủng này vẫn chưa được biết đến nhưng tình trạng là cực kỳ nghiêm trọng. Bệnh có liên quan đến viêm và phần lớn xảy ra ở những người trên 60 tuổi, người bệnh thường cũng cảm thấy đau xung quanh khu vực tai khi nhai. Khoảng 1/3 những người bị viêm động mạch tế bào khổng lồ sẽ bị mù, vì vậy, đây là tình trạng cần được chẩn đoán sớm. Các bác sĩ sẽ bắt đầu điều trị với steroid càng sớm càng tốt để phòng ngừa mù và cải thiện đau.
Đau dây thần kinh tam thoa
Càng lớn tuổi, bạn càng dễ bị tình trạng đau này ở thái dương và xung quanh hàm. Cơn đau buốt giống như sốc điện, người bị tình trạng này có thể bị vài đợt sốc mỗi ngày, có thể do động mạch chèn lên dây thần kinh. Theo Hội Đau đầu quốc gia Mỹ, thuốc làm giãn cơ có thể giúp ích nhưng nếu bệnh nhân bị những triệu chứng này dưới 55 tuổi, đó có thể là do bệnh thần kinh, như bệnh xơ cứng rải rác.
(Theo Prevention)

Thứ Tư, 21 tháng 11, 2018

Mức selen trong máu thấp làm tăng nguy cơ ung thư gan

Giáo sư Lutz Schomburg và đồng nghiệp đã phân tích dữ liệu của khoảng 477.000 người trưởng thành trong cuộc điều tra về ung thư và dinh dưỡng của châu âu




 Nghiên cứu xác định có 121 bệnh nhân ung thư gan, 100 bệnh nhân ung thư túi mật và đường mật, 40 bệnh nhân ung thư ống mật trong gan. Tất cả các bệnh nhân đã phát triển các loại ung thư trong hơn 10 năm theo dõi. Các nhà khoa học đã thu thập mẫu máu của các bệnh nhân ung thư để đánh giá mức độ selen trong máu so với những người khỏe mạnh. Kết quả cho thấy, 1/3 những người có nồng độ selen thấp nhất có nguy cơ mắc ung thư gan cao gấp từ 5-10 lần. Các chuyên gia đưa ra lời khuyên hàm lượng selen hàng ngày của người lớn là 100microgam đối với nam, 70microgam đối với nữ, trẻ em là 10-15microgam/ngày. Selen có nhiều trong các loại thực phẩm như lúa mỳ, ngô, bắp cải, đậu hà lan, cà rốt, củ cải, cà chua, tỏi đặc biệt là trong các loại cá.
((Theo Health, 9/2016))

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2018

Viêm cốt tủy do bạch cầu cấp ở trẻ em


Viêm cốt tủy hay viêm xương tủy là bệnh lý hệ xương từ đường máu do nhiều căn nguyên gây ra. Bệnh thường xảy ra ở trẻ em nhỏ với diễn tiến gây hạn chế vận động hoặc tàn tật ở trẻ sau này. Cần lưu ý viêm cốt tủy có thể là dấu hiệu của bệnh về máu cần được chẩn đoán. 

Một trường hợp hiếm gặp
Bé gái 7 tuổi, ở TP.HCM, nhập viện vì sốt và đau vai bên trái. 5 ngày trước nhập viện, cháu sốt liên tục, kêu đau nhiều ở vùng vai bên trái đến nỗi không cử động được cả cánh tay. Khám bệnh thấy cháu có sốt dao động, vài hồng ban rải rác ở ngực và lưng. Khớp vai (T) đau khi cử động. Không có bất kỳ dấu hiệu tổn thương ở các cơ quan khác. Hỏi kỹ bệnh mẹ cho biết 6 tuần trước đó cháu đã điều trị ở bệnh viện tư vì sốt và đau vai bên phải.
Viêm cốt tủy do bạch cầu cấp ở trẻ em 1
Cần đưa trẻ đi khám khi có dấu hiệu bất thường

Chụp X-quang hệ xương và siêu âm không thấy tổn thương tại xương và khớp vai 2 bên. Chẩn đoán hình ảnh MRI mới phát hiện tình trạng viêm xương tủy xương bả vai (T) phần trên gai vai, có abces mỏng dưới màng xương, viêm khớp cùng vai (T). Kiểm tra MRI  sau 2 tuần xuất hiện thêm ổ tổn thương cốt tủy mặt sau đầu dưới xương đùi (P). Xét nghiệm máu giảm cả 3 dòng HCT 28,3%, BC 5.330/mm3, TC 123.000/mm3. Do vậy được làm tủy đồ. Kết quả ghi nhận cả 3 dòng tế bào tủy đều phát triển rất kém, tủy tràn ngập tế bào non dòng tân bào giúp chẩn đoán bệnh viêm cốt tủy tái phát trên trẻ bạch cầu cấp dòng lympho.
Bệnh thường gặp ở trẻ em nhỏ
Viêm cốt tủy là bệnh hay khởi phát ở trẻ dưới 5 tuổi, 2/3 các trường hợp gặp ở trẻ nhỏ hơn 2 tuổi. Tỉ lệ mắc bệnh 1/5.000 trẻ, sơ sinh mắc nhiều hơn (1/1.000), trẻ trai bệnh nhiều hơn trẻ gái (2/1).
Gây bệnh từ đường máu với cơ chế gây tổn thương tủy xương ở trẻ em bắt đầu trong thân xương. Tác nhân nhiễm trùng theo đường máu đi vào mạch máu ở xương, làm thuyên tắc động mạch nuôi gây ra thiếu máu và ngăn cản cơ chế phòng vệ đến được nơi này. Kém tưới máu màng ngoài xương gây hoại tử, tiêu xương. Quá trình viêm xảy ra ở mô liên kết giữa các mô kế cận. Sau nhiều ngày sẽ có tình trạng tràn dịch vô khuẩn do phản ứng xảy ra ở gần khớp. Không điều trị mô hạt sẽ mọc quanh xương chết, tách rời vỏ xương và hình thành mảnh xương chết. Xương mới mọc sẽ xuất hiện xung quanh xương chết tạo thành bao xương chứa các ống xoang giữa xương nên dễ bị gãy. Tổn thương hoại tử có thể lan rộng quanh thân xương, đến vùng xương tăng trưởng và vào cả khớp.
Vị trí ở các xương dài 
Khác với người lớn viêm cốt tủy thường xuất hiện ở xương sống hoặc xương chậu. Ở trẻ em tổn thương thường xảy ra ở các xương dài như xương đùi và xương chày (50%), kế là xương cánh tay (25%). Các xương dẹt ít bị bệnh hơn. Viêm cốt tủy cũng có thể xảy ra ở nhiều xương (10%) và có thể liên quan đến các khớp.
Dấu hiệu lâm sàng thay đổi theo tuổi. Ở trẻ nhỏ, dấu hiệu sớm là biểu hiện giả liệt, đau khi cử động thụ động hoặc cả 2. Trẻ lớn hơn thường sốt, đau đến nỗi không thể hoặc không chịu đi đứng vì đau. Khớp liên quan thường ở tư thế hơi duỗi để giúp trẻ bệnh bớt đau và dễ chịu hơn. Da bị sưng, đỏ hoặc sờ căng là dấu hiệu tổn thương lan đến vỏ xương. Các triệu chứng khác có thể gặp ở trẻ như quấy khóc, nôn ói.
Chẩn đoán hình ảnh quan trọng
Những xét nghiệm sinh học cho kết quả thay đổi không đặc hiệu như thiếu máu trung bình, CRP tăng cao, VS tăng cao. Chẩn đoán hình ảnh giữ vai trò quyết định trong chẩn đoán. Chụp X-quang trong vòng 72 giờ từ khi xuất hiện triệu chứng nhằm loại trừ những nguyên nhân khác như chấn thương, dị vật. So sánh 2 bên để tìm ra hình ảnh phù nề các mô ở sâu. Hình ảnh tiêu xương phát hiện chậm, sau 7 - 14 ngày. Chụp CT chỉ ra những bất thường ở xương và mô mềm, đặc biệt phát hiện được hơi trong mô mềm. Nhấp nháy đồ có thể phát hiện viêm cốt tủy trong vòng 24 - 48 giờ, nhằm khảo sát tòan bộ xương, có khả năng phát hiện nhiều ổ tổn thương. MRI được xem là xét nghiệm chuyên biệt có độ đặc hiệu cao giúp xác định abces và phân biệt nhiễm trùng ở xương và mô mềm. MRI còn cung cấp các chi tiết khá chính xác tình trạng tụ mủ dưới màng xương và cặn mủ trong tủy xương.
Diễn tiến tái đi tái lại
Bệnh viêm cốt tủy cấp có thể tiến triển âm ỉ thành mãn tính với diễn tiến bệnh kéo dài, có những giai đoạn im lặng nhưng tái diễn nhiều lần (<5%). Các biến chứng muộn có thể gặp là gãy xương bệnh lý. Điều trị muộn trẻ có thể bị ngắn xương và biến dạng.
Lưu ý nguyên nhân không do nhiễm khuẩn
Nguyên nhân không do nhiễm khuẩn thường đề cập trong y văn là bệnh mô bào Langerhans, bướu xương, bệnh ác tính, hay bệnh tạo keo. Do bệnh về máu bạch cầu cấp hiếm gặp (dưới 2%). Nếu tổn xương chỉ ở một xương đặt ra vấn đề chẩn đoán khác biệt với bướu xương ác tính (bướu Ewing, neuroblastome). Tổn thương đa ổ tái phát mãn tính như trong trường hợp này cần lưu ý nguyên nhân không nhiễm khuẩn. Đây là trường hợp bệnh hiếm gặp gợi lại những đặc điểm lâm sàng, sinh học và hình ảnh chẩn đoán bệnh viêm cốt tủy do bạch cầu cấp ở trẻ em giúp các bác sĩ nhi khoa có sự lưu tâm để chẩn đoán sớm, giúp điều trị thích hợp sớm bệnh trẻ em.
BSCK2. NGUYỄN THỊ KIM THOA

Thứ Ba, 13 tháng 11, 2018

Viêm quanh cuống răng: Hệ quả của thói quen xấu

Viêm quanh cuống răng là tổn thương viêm của các thành phần mô quanh cuống răng. Ðây là bệnh lý nhiều người mắc phải gây ra đau đớn, ảnh hưởng đến năng lượng cũng như sinh hoạt thường ngày của bệnh nhân. Nếu không được điều trị đúng, tổn thương quanh cuống răng còn có thể dẫn đến nhiều biến chứng cầu kì khác.


Thói quen xấu là một trong những nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến viêm quanh cuống răng trong đó phải kể đến nguyên nhân do sang chấn răng. Các sang chấn cấp tính là những sang chấn mạnh lên răng gây đứt các mạch máu ở cuống răng, sau đó vi khuẩn dễ dàng xâm nhập dẫn tới viêm quanh cuống và thường gây viêm quanh cuống cấp tính. Đối với nhiều người có thói quen xấu như: cắn chỉ, cắn đinh… lặp lại liên tục và có tật nghiến răng cũng có thể gây ra tổn thương viêm quanh cuống mạn tính. Các sang chấn nhẹ như sang chấn khớp cắn, núm phụ cũng gây viêm quanh cuống mạn tính.
Nhiễm khuẩn cũng dễ gây viêm quanh cuống răng. Đa số bệnh nhân bị sâu răng dẫn đến viêm tủy, tủy hoại tử gây biến chứng viêm quanh cuống răng. Quá trình viêm tủy do các vi khuẩn xâm nhập từ lỗ sâu giải phóng hàng loạt các chất có độc tính vào mô quanh cuống, vi khuẩn từ mô quanh răng xâm nhập vùng cuống răng.
Ngoài ra, còn một số nguyên nhân sai sót trong điều trị răng miệng như: chất hàn thừa, chụp quá cao gây sang chấn khớp cắn, trong khi lấy tủy và làm sạch ống tủy đẩy chất bẩn ra vùng cuống gây bội nhiễm… cũng có thể gây viêm quanh cuống răng.
Viêm quanh cuống răng dễ dẫn đến áp-xe và hoại tử tủy.

Nhận biết cách nào?
Khi bệnh nhân bị viêm quanh cuống cấp có biểu hiện mệt mỏi, sốt cao ≥ 38˚C, có dấu hiệu nhiễm khuẩn như môi khô, lưỡi bẩn, có thể có phản ứng hạch ở vùng dưới hàm hoặc dưới cằm.
Người bệnh đau nhức răng: đau tự nhiên, liên tục dữ dội, lan lên nửa đầu, đau tăng khi nhai, uống thuốc giảm đau không đỡ, bệnh nhân có thể xác định rõ vị trí răng đau. Răng đau chạm trước khi cắn làm bệnh nhân không dám nhai. Thường thấy vùng da ngoài tương ứng răng tổn thương sưng nề, đỏ, không rõ ranh giới, ấn đau, có hạch tương ứng, ấn đau. Răng có thể đổi màu hoặc không đổi màu, khám thường thấy tổn thương do sâu chưa được hàn, hoặc răng đã được điều trị, hoặc những tổn thương khác không do sâu. Niêm mạc ngách lợi tương ứng vùng cuống răng sưng nề, đỏ, ấn đau, mô lỏng lẻo.
Biến chứng thường gặp
Những răng bị tổn thương vùng cuống răng nếu không được điều trị kịp thời và đúng phương pháp, bệnh có thể gây nhiều biến chứng cầu kì, gây ảnh hưởng không nhỏ tới năng lượng người bệnh. Biến chứng tại chỗ là áp-xe vùng xung quanh hoặc gây viêm hạch và vùng quanh hạch, viêm xương tủy. Biến chứng toàn thân là liên quan bệnh tim mạch, viêm thận, viêm khớp, gây đau nửa mặt giống như đau dây thần kinh V, ngoài ra có thể gây sốt kéo dài, rất khó chẩn đoán...
Cần điều trị sớm và dứt điểm
Điều trị viêm quanh cuống răng dựa theo nguyên tắc loại trừ toàn bộ mô nhiễm khuẩn và hoại tử trong ống tủy. Tùy từng trường hợp cụ thể mà các bác sĩ sẽ chỉ định cho phù hợp. Dẫn lưu tốt mô viêm vùng cuống. Hàn kín hệ thống ống tủy, tạo điều kiện cho mô cuống hồi phục. Chỉ định phẫu thuật cắt cuống răng nếu tiên lượng điều trị nội nha không có kết quả.
Lời khuyên của thầy thuốcTrong quá trình điều trị bệnh nhân cần tuân thủ chỉ định của bác sĩ. Sau khi điều trị, bệnh nhân vẫn cần tiến hành những ghi nhớ của bác sĩ: Tránh ăn những thức ăn quá cứng và dai. Chải răng và dùng chỉ nha khoa sau mỗi bữa ăn, ít nhất 2 lần/ngày, sau khi thức dậy buổi sáng và ăn tối. Sử dụng bàn chải đánh răng có lông mềm. Súc miệng bằng nước muối sinh lý hoặc nước súc miệng có nồng độ thích hợp. Tránh uống nước ngọt, hút thuốc và rượu bia, các chất này không tốt cho răng miệng, đặc biệt là khi vừa điều trị các bệnh vùng cuống răng.
BS. Huy Thành


Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2018

“Thủ phạm” trong nhà gây tổn thương phổi

1. Dung dịch tẩy trắng
Dung dịch tẩy trắng chứa clo hoặc amoniac được sử dụng để làm sạch sàn nhà, nhà tắm, v.v… có thể gây ảnh hưởng tới các tế bào phổi khi hít vào và thậm chí gây bệnh hen.

2. Thảm
Thảm, đặc biệt là thảm dầy, chứa nhiều vi khuẩn và các hạt bụi, vì vậy nếu không làm sạch chúng thường xuyên, bạn có thể có nguy cơ rối loạn hô hấp và tổn thương phổi.
3. Đồ gỗ
Đồ gỗ nội thất cũ với nhiều hình khắc và chi tiết cũng có thể dính nhiều bụi và gây dị ứng, bệnh đường hô hấp và trong trường hợp nặng là tổn thương phổi.
4. Máy hút bụi
Bụi bẩn được tập hợp trong máy hút bụi cũng có thể xâm nhập vào đường hô hấp và gây tổn thương phổi trong khi bạn đang làm sạch nó.
5. Mốc
Mốc, thường phát triển trên tường, trong phòng tắm… chứa nhiều vi khuẩn có hại có thể dẫn tới dị ứng hô hấp gây tổn thương phổi và bệnh hen.
6. Thuốc trừ sâu
Nếu bạn sử dụng quá nhiều thuốc trừ sâu để loại trừ côn trùng thì bạn có thể tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi vì các hóa chất trong thuốc trừ sâu có thể gây độc.
7. Sơn
Sơn có chứa hàm lượng cao các hóa chất độc hại và các chất sinh ung thư, vì vậy, nếu bạn tiếp xúc với sơn mới quá thường xuyên, bạn có thể bị tổn thương phổi.
BS Thu Vân
(Theo Boldsky)